I . TỊNH PHÁP GIỚI CHÂN NGÔN
輆
劣
OMÏ RAMÏ
-
OMÏ (輆
) có nghĩa là Tam thân quy mệnh
-
RAMÏ (劣)
là thanh chuyển của chữ RA (先
) , trong đó RA là chủng tử của bụi dơ, nó đưa đến sự mê mờ chướng ngại
. Nhưng trong chữ RA lại có mẫu âm A (狣) , khi nhập vào chữ A thì có thể dứt
trừ được mọi sự mê mờ chướng ngại . Do vậy, RA tự môn có ý nghĩa là xa
lìa tất cả bụi dơ phiền não .
Trong năm đại thì RA biểu tượng cho Hỏa đại mà lửa thì có hai loại là
lửa thế gian và lửa xuất thế gian .
1 . Lửa thế gian
: có hai loại là nội hỏa và ngoại hỏa .
a
. Nội hỏa
:
tượng trưng cho lửa phiền não của ba độc Tham, Sân, Si hay thiêu đốt tất
cả căn lành của các chúng sinh .
b
. Ngoại hỏa
:
là sức nóng ấm áp hay thành tựu chúng sinh và nuôi lớn vạn vật
2 . Lửa xuất thế gian
: còn gọi là Trí Hỏa, lửa
này hay thiêu đốt tất cả phiền não của chúng sinh với tập khí của Bổ
Tát, tức là đốt cháy mọi Vô minh, phiền não, ám chướng của tất cả chúng
sinh .
Vì chúng sinh không thật sự biết mình vốn có tâm tính cực thanh tĩnh lại
mải mê đeo đuỗi các trần cảnh cho nên nguyên tố nung nóng (Hỏa đại ) đã
tạo thành nhiệt tâm đam mê ích kỷ, chỉ muốn tìm kiếm mọi cảm giác làm
thỏa mãn ý riêng, chẳng lưu tâm đến sự tàn hại xảy ra với ngoại giới .
Do đây, NGÃ CHẤP mỗi lúc mỗi được củng cố bền chắc, các căn bất
thiện được dịp tăng trưởng, gây trở ngại, phá hủy các căn lành và dẫn
dắt chúng sinh lăn lộn trong bùn sinh tử khỗ đau .
Ngược lại, nếu chúng sinh nào bíết trừ diêät NGÃ CHẤP qua phương pháp
Bố Thí và tự thanh tịnh thân tâm qua phương pháp Trì Giới
thì nhiệt tâm đam mê ích kỷ sẽ bị thiêu hủy . Lúc ấy, nguyên tố nung
nóng sẽ chuyển thành ánh sáng rực rỡ của Trí Tuệ chiếu phá mọi Vô minh
ám chướng trong Pháp giới, giúp cho chúng sinh tự nhận biết được bản tâm
cực thanh tĩnh của chính mình . Từ đây, Chân Pháp Chân Trí xuất hiện và
thúc đẩy chúng sinh ấy đi thẳng đến quả vị Vô thượng Chính Đẳng Chính
Giác.
Dựa vào ý nghĩa này, các Đạo sư Mật Tông đã nhận định rằng : RA tự môn
là Pháp trừ chướng chân thật bậc nhất . Nếu đặt chữ RA (先) ở con mắt thì sẽ được thanh tịnh, nhờ
đó tri kiến cũng được thanh tịnh và hành giả mau chóng quán thành tựu
thật tướng của Tâm tức là nhận biết được tâm Bồ Đề cực thanh tĩnh vốn có
nơi mình
Khi chữ RA được chuyển thêm thanh Tam Muội nghĩa là chấm thêm điểm Đại
Không trên đầu thì thành chữ RAMÏ (劣). Do điểm Đại Không biểu thị cho Tam
Muội Đại Không nên RAMÏ chính là Hỏa sinh Tam Muội, biểu thị cho Đại
Không Trí Hỏa Tam Muội là TRÍ PHÁP THÂN của Đại Nhật Như Lai có
công dụng hay thiêu đốt tất cả bụi dơ vô thủy vô minh của chúng sinh và
giúp cho mầm giống của Tâm Bồ Đề được sinh trưởng .
Dựa vào công năng thiêu cháy hết tất cả bụi dơ ám chướng của Thế Gian để
hiển bày Pháp Giới thanh tịnh bản nhiên mà RAMÏ được gọi là Pháp Giới
Sinh Chân Ngôn hay là Tịnh Pháp Giới Chân Ngôn . Từ ý nghĩa này, người
hành Chân Ngôn thường trì niệm OMÏ RAMÏ để làm cho 3 nghiệp Thân, Khẩu,
Ý được trong sạch ; tiêu trừ tất cả tội chướng, thành tựu tất cả thắng
sự và được thanh tịnh ở bất cứ nơi nào .
Trong phẩm Tất Địa Xuất Hiện của Kinh Đại Tỳ Lô Giá Na Thành
Phật Thần Biến Gia Trì có ghi :
-
Chữ LA ( RA _先
) chân thật thắng
Phật nói : Nó trên lửa
Có bao nhiêu nghiệp tội
Đáng phải chịu quả báo
Du kỳ ( yogì ) Người khéo tu
Đẳng Dẫn đều tiêu trừ
Trú nơi hình tam giác
Khắp hình đỏ đẹp ý
Lửa tỏa quanh vắng lặng
Tam giác tại tim mình
Tương ứng quán trong đấy
Chữ LA, điểm Đại Không ( RAMÏ _劣)
Bậc Trí như Du Già
Dùng nó thành mọi việc
Nhật Diệu, các quyến thuộc
Làm được tất cả lửa
Nhiếp giữ, phá oán đối
Đốt hết mọi chi phần
Các điều ấy nên làm
Đều ở Trí Hỏa Luân .
Ngoài ra, Bậc cổ Đức còn có kệ rằng :
-
Chữ LA (先)
sắc trắng sạch
Dùng chấm Không thêm vào (劣)
Như Bảo Minh Châu kia
Đặt nó ở trên đỉnh
Chân Ngôn đồng Pháp Giới
Trừ vô lượng các tội
Tất cả nơi xúc uế
Thường trì Tự Môn này .
Lại nữa, do ý nghĩa :Tiêu trừ tất cả bụi nhơ phiền não ám chướng
cho nên RAMÏ còn là chủng tử của Trừ Cái Chướng Bồ Tát ( Sarva Nivaranïa
visïkambhin bodhisatva ) Vị Bồ Tát này hay trú ở Tam Muội Bi Lực, dùng
tất cả các Môn trong Pháp Giới mà tĩnh trừ các nghiệp chướng cứu khổ
chúng sinh . Viêc Trừ cái chướng này nhằm phá trừ mọi lưới mê vọng của
chúng sinh và phủi sạch mọi bụi nhơ phiền não đang che phủ bản tâm thanh
tĩnh như như vốn có của tất cả chúng sinh giúp họ chứng được con đường
sáng tỏ của Pháp (Pháp Minh Đạo) là biết Tâm thực tế vốn chẳng sinh, Tâm
ấy thanh tịnh an trụ sinh Đại Tuệ chiếu khắp vô lượng Pháp Tính, thấy rõ
Đạo của Chư Phật hành, ít tốn công sức mà được Tam Muội Trừ Cái Chướng,
thấy thực tướng của 84.000 nhóm báu, được đồng đẳng trụ với Chư Phật Bồ
Tát, tự tâm chứng được Diệu tướng Trạm Nhiên của Chư Phật mười phương .
Từ đó rộng làm Phật sự, nuôi dưỡng hạt giống Như Lai mà mau chóng được
Quả Bồ Đề
Nay trì niệm chủng tử RAMÏ này, hành giả sẽ mau chóng thấu ngộ được bản
tính thanh tĩnh vốn có nơi mình, do đó tự phát khởi đức tin trong sạch
thâm sâu nơi Phật Pháp và tự khai mở lại bản giác Như Như vốn có của
mình . Đây là giai đoạn nương theo lực gia trì của Trí Pháp Thân
, tu tập hai Pháp Bố Thí Ba La Mật ( Dàna pàramità ) với Trì Giới Ba La
Mật (‘Sìla pàramità) để dọn sạch đất Tâm và gieo trồng hạt giống Bồ Đề
II .VĂN THÙ NHẤT TỰ CHÂN NGÔN
輆
OMÏ ‘SRHYIMÏ
- OMÏ (輆
) có nghĩa là Tam thân quy mệnh
- ‘SRHYIMÏ ( ) được kết hợp bởi 6 âm tự là :
. ‘SA (在)
là tất cả các Pháp bản tính tịch
.
RA (先)
là tất cả các Pháp lìa các trần nhiễm
.
HA (成)
là tất cả Pháp Nhân chẳng thể đắc
.
YA (伏)
là tất cả Pháp Thừa chẳng thể đắc
.
I (珂)
là tất cả Pháp Căn chẳng thể đắc
.
MA (亙)
là tất cả Pháp Ngô Ngã chẳng thể đắc
Trong đó : ‘SA + RA = ‘SRA có nghĩa là Cát tường
HA + YA = HYA là nhân đẳng hay nhóm hạt nhân
I + MA = IMÏ là tự ngã
Như vậy ‘SRHYIMÏ có nghĩa là Tự Ngã an ổn trong các nhân tốt lành
Đây là Chân Ngôn của Ngài Diệu Cát Tường Bồ Tát ( Mamïju‘sri Bodhisatva
) hay còn gọi là Nhất Kế Văn Thù Bồ Tát, Nhất Man Văn Thù Bồ Tát . Tôn
hình của Ngài là thân đồng tử màu vàng, ngổi bán già trên toà sen ngàn
cánh . Tay trái cầm hoa sen xanh, trên hoa sen có viên ngọc báu Như Ý .
Tay phải hướng ra ngoài rũ năm ngón xuống thành Ấn MÃN NGUYỆN , miệng
mỉm cười . Trên đỉnh, tóc kết thành một búi nên gọi là Nhất Kế hay Nhất
Man Văn Thù .
Trong Tôn tượng, hoa sen xanh biểu thị cho Tam Muội chẳng nhiễm dính các
Pháp. Bảo Châu Như ý ( Viên ngọc báu Như Ý ) biểu tượng cho Phước Trí
của Như Lai . Tay ấn Mãn Nguyện biểu thị cho sự làm thỏa mãn mọi ước
nguyện của chúng sinh .
Kinh Văn Thù Sư Lợi Căn Bản Nhất Tự Đà La Ni
có ghi rằng :
Chú này hay diệt trừ tất cả yêu quái tà ác, là Pháp Cát Tường của tất cả
Chư Phật, cũng hay thành tựu tất cả Thần Chú . Tụng Chú này hay khiến
cho chúng sinh khởi tâm Đại Từ, tâm Đại Bi . Tất cả chướng ngại đều được
tiêu diệt và đều được đầy đủ mọi ước nguyện .
Nếu có người nữ bị tai nạn lúc sinh sản hoặc người nam bị tên bắn cho
đến bị tất cả các bệnh tật khổ, thì tụng Chú này sẽ trừ diệt được tất cả
hiểm nạn .
Lại nữa, chú Đà La Ni này hay khiến cho chúng sinh trong đời hiện tại
đắc được an ổn, Chư Phật Đại Bồ Tát thường là quyến thuộc, tất cả sở
nguyện đều được thành tựu
Dựa vào ý nghĩa này, người hành Chân Ngôn thường trì tụng OMÏ ‘SRHYIMÏ
để bảo hộ tự thân nhằm ngăn ngừa tất cả Quỷ Thần, Thiên Ma đến não hại
và cầu được viên mãn mọi sở nguyện .
Theo ý nghĩa khác, Văn Thù Sư Lợi là vị Bồ Tát đã thông đạt Trí Tuệ
thâm sâu của Như Lai, Trí Tuệ ấy chỉ có Chư Phật tự chứng biết chẳng có
thể trao truyền lại cho người khác được . Nếu lìa phương tiện gia trì ắt
chẳng ai có thể đạt đến được . Vì thế, vị Bồ Tát này trụ vào Tam Muội
Thần Lực Gia Trì của Phật, dùng hạnh Anh Nhi ( trẻ thơ) trở lại hiện
thân đồng tử cầm Báu Như Ý vô nhiễm trước, soi sáng tâm ám tối của chúng
sinh khiến cho họ tự nhận biết rằng mình vốn có đầy đủ các công đức bình
đẳng như Chư Phật, chỉ vì Vô minh ngăn che nên chẳng tự biết rõ . Nay
được ánh quang minh Phước Trí soi tỏ thì phải thi hành vạn hạnh cho
thành thục để khai mở hoa Bồ Đề .
Trong thực tế, muốn thi hành vạn hạnh thì cần phải có sức kham nhẫn
trong mọi hoàn cảnh, mọi trường hợp. Đồng thời phải có một ý chí sắt đá
để ngăn ngừa dứt trừ các Pháp Bất Thiện đồng thời nuôi dưỡng và
phát huy các Pháp thiện . Điều này có nghĩa là hành giả cần phải
chuyên tâm tu tập hai Pháp Nhẫn Nhục Ba La Mật (Ksïànti pàramità ) và
Tinh Tiến Ba La Mật (Vìrya pàramità ) để làm sáng tỏ tâm hạnh Bồ Đề .
Như vậy,khi trì niệm OMÏ ‘SRHYIMÏ hành giả sẽ tự giữ gìn được bản tâm
thanh tịnh đồng thời tự tránh xa các Pháp ác, nuôi lớn các Pháp lành
nhằm nuôi dưỡng hạt giống Tâm Bồ Đề đang nảy nở trong Tâm mình . Đây là
giai đoạn nương theo Phước Trí Bình Đẳng của Chư Phật Bồ Tát, tu
tập hai Pháp Nhẫn Nhục Ba La Mật, Tinh Tiến Ba La Mật để trưởng dưỡng
Tâm Bồ Đề, tức là làm sáng tỏ ý nghĩa Trừ cái chướng vậy .
III . LỤC TỰ ĐẠI MINH CHÂN NGÔN
輆 亙仗 扔榰 猲
OMÏ MA NÏI PADME HÙMÏ
Khi trì niệm OMÏ MANÏI PADME HÙMÏ hành giả tự an trú tâm ý trong
Pháp thiền định quán tưởng nhằm chận đứng sự lao xao cuồng động của Tâm
Ý cho đến khi Cuồng Tâm ngưng nghỉ thì lúc ấy, hành giả tự chứng ngộ
được bản tâm thanh tịnh vô nhiễm trước vốn có nơi mình nghĩa là chứng
ngộ được Phật Tính bất sinh bất diệt đang tiềm ẩn trong mọi nhân
duyên sinh diệt . Đây là giai đoạn nương theo Trí Phổ Môn Phương
Tiện của Như Lai, tu tập Thiền Định Ba La Mật ( Dhyàna pàramità )
để chứng ngộ Tâm Bồ Đề vậy .
( Tham khảo thêm phần Lục Tự Minh Chú )
IV . CHUẨN ĐỀ CỬU THÁNH TỰ CHÂN NGÔN
巧伕
屹拻觡
屹谷湨后盍
人廿觡
NAMO SAPTÀNAMÏ SAMYAKSAMÏBUDDHA KOTÏINAMÏ
凹渰卡
TADYATHÀ
湡
弋同
慪同
慪
送扣
OMÏ CALE CULE CUDHE SVÀHÀ
-
NAMO SAPTÀNAMÏ SAMYAKSAMÏBUDDHA KOTÏINAMÏ : có nghĩa là “Quy mệnh
bẩy trăm triệu ( 7 ức ) Chính Đẳng Chính Giác”
-
TADYATHÀ : có nghĩa là Mở Tạng Như Lai nói Thần Chú là
-
OMÏ : có nghĩa là Tam thân quy mệnh
-
CALE : là giác động, tức là chuyển động sự giác ngộ
-
CULE : là Trực khởi, tức là đi thẳng đến .
-
CUDHE : là Tự tính thanh tĩnh của Tâm Bồ
Đề .
-
SVÀHÀ : là Thành tựu vị an lạc của Đại Niết bàn.
OMÏ CALE CULE CUDHE SVÀHÀ có nghĩa là : Khi Thân ,
Khẩu, Ý hợp nhất với sự giác ngộ Phật Tính, sẽ đi thẳng vào tự tính
thanh tĩnh của tâm Bồ Đề và thọ nhận mùi vị an lạc tịch tĩnh của Đại
Niết Bàn
Chín chữ Thánh Tự này được bẩy ức ( 700 triệu ) Phật tuyên thuyết nhằm
giúp chúng sinh khai mở được Bản Tâm cực thanh tĩnh vốn có của mình đồng
thời khiến cho họ thọ nhận được mùi vị an lạc tịch tĩnh của Đại Niết bàn
. Giai đoạn này chính là thành quả tu tập Tuệ Ba La Mật ( Prajnõà
pàramità ) để dứt trừ các quả Hữu Lậu, thâm nhập vào quả Vô Lậu, Chứng
Nhập Tâm Bồ Đề và vĩnh viễn thoát khỏi sự trói buộc của vòng sinh tử
luân hồi .
Kinh Thất Câu Đê Phật Mẫu Chuẩn Đề Đại Minh Đà La Ni có ghi rõ
Pháp tu theo Quán Hạnh Tam Ma Địa Du Già nhằm giúp cho hành giả mau
chóng thấu ngộ được tự tính bản nhiên của Pháp Giới, để từ đó an nhiên
vượt thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử như sau :
Khi niệm tụng, hành giả tưởng tâm mình như vành trăng tròn sáng lớn,
thanh tịnh lặng lẽ, trong ngoài sáng suốt . Kế đó dùng chữ ÁN an trí ở
chính giữa vành trăng, tiếp theo thứ tự an bố các chữ CHIẾT, LỆ, CHỦ ,
LỆ, CHUẨN , ĐỀ , SÓA, HA . Xoay quanh theo vòng bên phải . Nên quán kỹ
nghĩa của mỗi chữ đều tương ứng với Tâm .
-
ÁN (湡)
nghĩa là : lưu trú không sinh diệt, là Pháp tối thắng trong tất cả các
Pháp
-
CHIẾT (弋)
nghĩa là : tất cả các Pháp vô hành
-
LỆ (同)
nghĩa là : tất cả các Pháp vô tướng
-
CHỦ (慪)
nghĩa là : tất cả các Pháp không khởi trụ
-
LỆ (同)
nghĩa là : tất cả các Pháp vô cấu ( Không dơ bẩn )
-
CHUẨN (慪)
nghĩa là : tất cả các Pháp vô đẳng giác
-
ĐỀ ( ) nghĩa là : tất cả các Pháp không thủ xả
-
SÓA (送)
nghĩa là : tất cả các Pháp bình đẳng không ngôn thuyết .
-
HA (扣)
nghĩa là : tất cả các Pháp Vô Nhân vắng lặng, là Vô Trụ Niết bàn
Nghĩa của các chữ đây tuy có lập văn tự mà thật ra không có văn tự . Đã
không văn tự nên hành giả phải quán kỹ mỗi mỗi nghĩa tướng, xoay vần nối
nhau, không có ký số, không cho đoạn tuyệt . Không đoạn tuyệt là nghĩa
tối thắng, là nghĩa lưu trú không sinh diệt . Vì tối thắng lưu trú không
sinh diệt nên vô hành . Vì vô hành nên vô tướng . Vì vô tướng nên không
khởi trụ . Vì không khởi trụ nên vô cấu . Vì vô cấu nên vô đẳng giác .
Vì vô đẳng giác nên không thủ xả . Vì không thủ xả nên bình đẳng giác
không ngôn thuyết . Vì bình đẳng không ngôn thuyết nên vô nhân vắng
lặng, vô trụ Niết bàn . Vì vô nhân vắng lặng, vô trụ Niết bàn nên tối
thắng lưu trú không sinh diệt . Cứ như thế quán niệm xoay vần không cho
đoạn tuyệt và đây gọi là Tam Ma Địa Niệm Tụng
Pháp Quán Niệm Tụng này nhằm giúp cho hành giả đang tu tập Tuệ Ba La Mật
dứt trừ được Pháp Chấp, thực chứng được Pháp Tính, quán triệt được
vạn Pháp như huyễn, thọ nhận vị an lạc tịch tĩnh của Đại Niết
bàn .
Trong Bất Không Quỹ có ghi :
“Kết Định Ấn, ngồi ngay thẳng nhắm mắt, phát tâm tĩnh ý . Quán ở
bên trong ức ngực hiện rõ Viên minh (Vành sáng tròn trịa) như ánh sáng
mặt trăng trắng tinh . Khởi đại tinh tiến, quyết định thủ chứng khiến
chẳng quên mất, tất sẽ được tâm bản nguyên thanh tĩnh”.
Do ý nghĩa này mà Chuẩn Đề (Cudhe)
được dịch ý là thanh tĩnh và Chuẩn Đề Bồ Tát biểu thị cho tâm tính thanh
tĩnh . Như vậy Thất Câu Đê Phật Mẫu được biểu thị cho ý nghĩa Tâm
Tính thanh tĩnh là mẫu của bảy trăm triệu Chư Phật .
Lại nữa, sự thanh tĩnh vô nhiễm cấu là đặc tính của Liên Hoa Bộ (Padma
Kulàya) do đó trong Viện Biến Tri của Thai Tạng giới Man Đà la thì Chuẩn
Đề là Mẫu của Liên Hoa Bộ trong Phật Bộ ( Buddha kulàya ) nghĩa là từ
Tôn này sinh ra các Tôn của Liên Hoa bộ . Ý nghĩa này được minh họa qua
Chuẩn Đề Căn Bản Ấn : Hai Luân Địa, hai Luân Thủy cài nhau đặt trong
lòng bàn tay . Hai Luân Hỏa dựng đứng thẳng cùng vịn nhau . Hai Luân
Phong hơi co lại vịn trên lưng hai Luân Hỏa ở đốt thứ nhất . Hai Luân
Không đặt bên cạnh hai Luân Phong
Ấn này gọi là Tam Cổ Ấn, Tam Năng Sinh Phật Ấn tức là Phật Đỉnh Ấn biểu
thị cho nghĩa Phật Mẫu , trong đó :
+
Hai Luân Địa (2 ngón út ) cài bên trong biểu thị cho Thành Sở
Tác Trí, làm nghiệp Đức bên trong, là Phật Đỉnh Ấn nên tác nghiệp chẳng
lộ ra ngoài .
+
Hai Luân Thủy (2 ngón vô danh) cài bên trong biểu thị cho Diệu
quán Sát Trí là Đức thuyết Pháp đoạn nghi nên thường ở bên trong .
+
Hai Luân Hỏa (2 ngón giữa ) là Pháp Thể của Pháp Nhĩ căn bản .
+
Hai Luân Phong (2 ngón trỏ) là giới Tuệ của Tu sinh Thủy giác,
thường hay khai mở nghĩa Tâm Bồ Đề của chúng sinh .
+
Hai Luân Không (2 ngón cái ) là nghĩa Nhất Đức Thành tựu của Pháp
Giới Thể Tính Trí
Do Chuẩn Đề Bồ Tát có mật hiệu là Tối Thắng Kim Cương, chủng tử là BU (后)
và Quán Tự Tại Bồ Tát ở cánh hoa Đông Bắc trong Trung Đài Bát Diệp Viện
cũng có chủng tử là BU (后)
nên người đời thường hợp xưng thành danh hiệu Chuẩn Đề Quán Âm
và Hồng Danh này biểu thị cho hạnh nguyện của Tâm Bồ đề với Đức tự
chứng . Ý nghĩa này được minh họa qua Tôn tượng Chuẩn Đề trong Biến Tri
viện . Tôn tượng màu vàng lợt, mặc áo lục mỏng như Thiên y, đầu đội mão
báu có ngọc lưu ly rũ treo, mặt có ba mắt, ngồi trên tòa sen, toàn thân
có 18 tay, mỗi tay có đeo vòng xuyến khảm xà cừ và mỗi tay đều cầm các
loại Khí Cụ biểu thị cho các Tam Muội Gia (Bản thệ - Samaya ) .
Ý
nghĩa của Tôn Tượng này đã được minh họa rất rõ trong Bạch Bảo
Khẩu Sao như sau:
Tượng có thân màu vàng trắng:
Màu vàng ( A ) tượng trưng cho Thai Tạng Giới, màu trắng ( VAMÏ ) tượng
trương cho Kim Cương Giới. Màu vàng trắng biểu thị cho nghĩa “ Lý Trí
chẳng hai, Định Tuệ một Thể” và biểu thị cho Đức Năng Sinh của
chư Phật.
Mặt Tượng có 3 mắt:
3 mắt là Phật Nhãn, Pháp Nhãn, Tuệ Nhãn biểu thị cho nghĩa “ 3 Đế
chẳng dọc chẳng ngang, nhất như bình đẳng”
Thân Tượng có mọi loại trang nghiêm tỏa ánh hào quang tròn sáng rực lửa:
Sắc Pháp biểu thị cho nghĩa của Thai Tạng Giới. Mọi loại
biều thị cho các Pháp như cát bụi. Trang Nghiêm biểu thị cho
nghĩa Bồ Tát dùng phiền não làm Bồ Đề.Ánh hào quang tròn sáng rực lửa
biểu thị cho nghĩa Tâm Pháp của Kim Cương Giới, là Trí hay phá mọi
ám chướng của Tâm hư vọng.
Thân Tượng có 18 tay:
Hai tay bên trên tác Tướng Thuyết Pháp:
Tôn này vào Nhân Đạo hay làm vị Hóa Chủ phá 3 Chướng nên đặt biệt hiện
ra 3 mắt Trí nói Pháp lợi sinh nên y theo giáo vì Pháp Cơ khiến cho
chứng quả vị của 3 Thân
Bên Phải:
Tay thứ hai tác Thí Vô Úy:
5 ngón tay bên phải biểu thị cho 5 Trí là nghĩa của Quang Minh. Tôn này
là Hóa Chủ của Nhân Đạo nên ở Thế Giới Sa Bà có hiệu là Thí Vô Úy (
Abhayamïdada ) . Do hiển nghĩa Đại Bi chân thật sạu rộng nên hiện tay
này.
Tay thứ ba cầm cây Kiếm:
Cây Kiếm biểu thị cho Trí Tuệ giáng 4 Ma, trừ 3 Chướng, hại 3 Độc , dứt
5 Dục.
Tay thứ tư cầm Sổ Châu ( Tràng Hạt
)
:
Tràng Hạt biểu thị cho Trí Tuệ mang nghĩa Chuyển Pháp Luân. Mẫu Châu là
Bản Tôn A Di Đà. Manh mối của tràng hạt là Quán Aâm, đây là manh mối Đại
Bi của Quán Aâm xâu suốt 108 phiền nảo. Mỗi lần chuyển dời một hạt ắt
dứt bỏ một phiền não, nên đoạn 108 phiền não chứng 108 Tam Muội, mỗi mỗi
đều đủ cho Pháp, như Đức Thần Lực chẳng thể nghĩ bàn,mỗi mỗi đều đủ vô
lượng Bản Thệ Tam Muội của thân khẩu ý.
Tay thứ năm cầm quả Vĩ Nhạ Bố La Ca ( Bìjapùraka):
Bìja
là hạt, Pùraka là tràn đầy nên Bìjapùraka
được dịch là Tử Mãn Quả, quả này chí có ở Thiên Trúc.Quả này
biểu thị cho hạt giống mãn vạn hạnh vạn thiện, hiển nghĩa công đức viên
mãn của Phật Quả.
Tay thứ sáu cầm cây búa (Phủ Việt ):
Cây búa phá tất cả, không có gì không tồi phá được là tồi phá nạn Vô
Minh, cắt đứt Hoặc Chướng biểu thị không dư sót.
Tay thứ bảy cầm móc câu:
Móc câu ( Aku’sa )
có nghĩa là vua, 4 biển đều triều tôn nhà vua nên vạn đức đều quy vào
Tôn này, nghĩa là vua của các Tôn nên gọi là Phật Mẫu. Sở Thuyên Câu
Triệu tất cả chúng sinh khác vào cung Pháp Giới Nội Chứng vốn có là có
triệu vào Như Lai Tịch Tĩnh Trí Đức. Do vậy hiện tay cầm móc câu.
Tay thứ tám cầm Bạt Chiết La ( Vajra
)
:
Đường gọi Độc Cổ Xử là chày Kim Cương, Tam Cổ Xử là Bạt Chiết La (
Vajra ). Tam Cổ Xử hay tồi diệt 3 Độc hiển chư Tôn của 3 Bộ nên là Phật
Mẫu của 3 Bộ.
Tay thứ chín cầm vòng hoa báu ( Bảo Man)
:
Hoa Man xâu suốt hoa lá biểu thị cho nghĩa Vạn Đức Trang Nghiêm, là công
đức của Bình Đẳng Tính Trí.
Bên trái:
Tay thứ hai cầm cây phướng báu Như Ý:
Phướng báu Như Ý là phướng báu của Tâm Bồ Đề ( Bodhicitta ) có địa vị
cao tột. Đối với chúng sinh không có Phước Tuệ , bần cùng thì ban cho
Nguyện Thế Xuất Thế. Viên ngọc báu ( Bảo châu ) là gốc rễ của mọi thiện,
đáy nguồn của vạn hạnh.
Tay thứ ba cầm hoa sen hồng:
Hoa sen hồng tên Phạn là Padma.
Hoa sen là tự tính thanh tĩnh biểu thị cho nghĩa Tự Tính Thanh tĩnh của
tất cả các Pháp. Là Pháp tĩnh 3 Độc , 5 Dục, tất cả tội của Nhân Gian.
Màu hồng biểu thị cho màu sắc khả ái ( đáng yêu )
Tôn này vào Nhân Đạo làm vị Hóa Chủ nên đặc biệt dùng hoa sen hồng biểu
thị cho Đức này
Tay thứ tư cầm bình Táo Quán:
Cái Bình mang nghĩa chứa đầy tất cả vật. Phật Mẫu Tôn sinh ra các Tôn
trong 3 Bộ là Đức chứa đầy. Do vậy hiện thị tay cầm bình Táo Quán.
Tay thứ năm cầm sợi dây:
Sợi dây biểu thị cho nghĩa giáng phục Ác Ma. Các Tôn Phẫn Nộ ( Krodha
Nàtha ) hay cầm sợi dây. Tôn này trói buộc kẻ khó phục khiến cho khuynh
động dẫn vào cung Pháp Giới vốn có. Trong 4 Nhiếp Phương Tiện thì đây là
phương tiện Đại Bi cực vị vậy.
Tay thứ sáu cầm bánh xe:
Bánh Xe ( Luân_ Cakra ) nghĩa là chuyển hoặc tồi phá, biểu thị cho sự
lưu chuyển sinh tử trong 25 Hữu. Khi luân chuyển đã diệt thì bánh xe
dừng lại vậy.
Tay thứ bảy cầm loa
:
Loa là vỏ ốc ( ‘Sakha )
mang nghĩa nói tịch tĩnh như Pháp. Lại biểu thị cho tiếng rống của sư
tử, khi sư tử rống thì muôn thú trong sơn dã đều bị giáng phục. Nay dùng
tiếng vang lớn của loa khiến giáng phục loại phiền não hoặc chướng
của chúng sinh.
Tay thứ tám cầm Hiền Bình:
Hiền Bình là Tam Muội Gia (Samaya) biểu thị sự chứa đầy 4 Trí Cam Lộ ban
cho chúng sinh đều khiến mở Hoa Giác vốn có.
Tay thứ chín cầm rương Kinh Bát Nhã
:
Rương Kinh Bát Nhã biểu thị cho Thể của Trí Tuệ. 10 phương 3 đời Phật Bồ
Tát đều y theo Bát Nhã này thành Chính Giác. Do Tôn này là Phật Mẫu của
chư Phật nên cầm rương Kinh Bát Nhã.
_
Lại nữa để có thể giúp cho người tu hành nắm vững Pháp Tu của mình, nên
các vị Đạo Sư Mật Giáo đã minh họa rất rõ phương thức vẽ Tôn Tượng
Chuẩn Đề Phật Mẫu và giảng giải nghĩa thú của tranh tượng này
Thất Câu Đê Phật Mẫu Sở Thuyết Chuẩn Đề Đà La Ni Kinh
( Do Tam Tạng BẤT KHÔNG dịch ) có ghi:
“
Tượng Chuẩn Đề Phật Mẫu với thân màu trắng vàng, ngồi Kiết Già
trên hoa sen, thân tỏa hào quang tròn có dính hạt thóc nhẹ như áo của 10
Ba La Mật Bồ Tát, phía trên bên dưới đều tác màu trắng. Lại góc áo khoác
ngoài ( Thiên Y ) có quấn anh Lạc, đội Mão Trời, cánh tay đều đeo vòng
xuyến. Đàn Tuệ ( 2 bàn tay ) đều đeo vòng báu. Mặt Tượng ấy có 3 mắt, 18
cánh tay.
Hai tay bên trên tác tướng Thuyết Pháp
Bên phải: Tay thứ hai tác Thí Vô Úy, tay thứ ba cầm cây Kiếm, tay thứ tư
cầm vòng hoa báu, lòng bàn tay thứ năm cầm Cụ Duyên Quả, tay thứ sáu cầm
cây Búa, tay thứ bảy cầm Móc Câu, tay thứ tám cầm chày Kim Cương, tay
thứ chín cầm Tràng Hạt.
Bên trái: Tay thứ hai cầm cây Phướng báu Như Ý, tay thứ ba cầm Hoa Sen
hồng hé nở, tay thứ tư cầm Quân Trì, tay thứ năm cầm Sợi Dây, tay thứ
sáu cầm Bánh Xe, tay thứ bảy cầm Thương Khư (‘Sanõkha_Vỏ ốc ) , tay thứ
tám cầm Hiền Bình, tay thứ chín cầm rương Kinh Bát Nhã.
Bên dưới hoa sen vẽ ao nước. Trong ao có Long Vương Nan Đà ( Nanda Nàga
ràja ) , Long Vương Ổ Ba Nan Đà ( Upananda Nàga ràja ) nâng tòa hoa sen.
Bên trái vẽ người Trì Minh , tay cầm lò hương chiêm ngưỡng Thánh Giả.
Chuẩn Đề Phật Mẫu thương xót người Trì Minh, hướng mắt nhìn xuống.
Bên trên vẽ 2 vị Tĩnh Cư Thiên Tử, một vị tên là Cụ Sách Đà Thiên Tử,
tay cầm vòng hoa hướng xuống dưới, nương theo trên hư không đến cúng
dướng Thánh Giả”.
Ý
nghĩa của Tranh Tượng này là:
_
Thân màu trắng vàng: Biểu thị cho nghĩa Lý Trí chẳng hai,
Định Tuệ một Thể hàm chứa Đức Năng Sinh của chư Phật.
_
Ngồi Kiết Già: Biểu thị cho tính Nhất Như của sinh
tử và Niết Bàn
_ Hoa sen
:
Biểu thị cho Tâm Đại Bi
_
Thân tỏa hào quang: Biểu thị cho Trí phá ám chướng của Tâm
hư vọng.
_
Phía trên bên dưới toàn là màu trắng: Biểu thị cho sự hiển
bày Pháp Đại Bi trắng tịnh để hóa độ chúng sinh
_
Mọi thứ trang sức trên thân: Biểu thị cho hiện
tượng Bồ Tát đi vào dòng sinh tử dùng phiền não để hiển thị Bồ Đề.
_ Mặt có 3 mắt
:
Hiện Phật Nhãn, Pháp Nhãn, Tuệ Nhãn biểu thị cho nghĩa Ba Đế chẳng
dọc chẳng ngang, nhất như bình đẳng.
_ Thân có 18 tay:
Hai tay thứ nhất
: tác tướng thuyết Pháp biểu thị cho
sự hiển bày Phật Pháp hóa độ chúng sinh . Còn lại tám tay bên trái biểu
thị cho Mê Giới và tám tay bên phải biểu thị cho Phật Giới .
Hai tay thứ hai
: Tay trái cầm Phướng báu tượng trưng
cho Tâm Bồ Đề vốn có nơi mọi chúng sinh mà chẳng tự biết . Nay dùng tay
Thí Vô Úy bên phải gia trì khiến cho hiển đắc Tâm Bồ Đề đó .
Hai tay thứ ba
: Tay trái cầm hoa sen tượng trưng cho
Bản Thể vô cấu nhiễm vốn có của mọi chúng sinh, nhưng do dựa vào phiền
não ngăn trệ mà dư Tập khí chưa hết nên chẳng hiển lộ được vạn đức . Nay
dùng cây kiếm sắc bén bên phải tượng trưng cho Đẳng Giác của Phật giới,
một lần chuyển kiếm chém đứt dư Tập khí ấy khiến cho hoa sen thanh tịnh
nở bày những cánh hoa vạn đức vạn thiện .
Hai tay thứ tư
: Tay trái cầm bình Quân trì chứa nước
Táo Quán (Nước rưới vảy ) tượng trưng cho Trí Tuệ vốn có của chúng sinh
. Nhưng do không có Phước, không có trí như đất khô cằn chẳng có nước
thấm ướt nên mầm giống Bồ Đề chẳng thể sinh trưởng được, đây tức là dựa
vào phiền não mà chẳng thể phát sinh Trí Tuệ . Nay dùng tay phải cầm
Tràng hạt gia trì khiến cắt đứt 108 phiền não để cho hiển đắc được nước
Trí Tuệ của Như Lai rưới thấm ướt đất tâm khô cằn . Nước ấy là Đức của
Trí Thủy chứa trong bình Quân Trì vậy .
Hai tay thứ năm
: Tay trái cầm sợi dây tượng trưng cho
sự ràng buộc cột trói chúng sinh trong nhà sinh tử, sự ràng buộc này
thiên về Thức thứ tám (Alàya vijnõàna). Tay phải cầm Cụ Duyên Quả (Bìja
pùraka_ Tử Mãn Quả) tượng trưng cho thức thứ tám là thức của tâm . Nhiều
hạt giống của Pháp ở ngoài Tâm được thu nạp vào mà chẳng bị hư hoại hao
tổn, lại tùy ý khiến sinh ra sự xoay chuyển làm cho Thức thứ tám lưu
chuyển, chứng đắc được cảnh giới Đại Viên . Khi ấy tất cả năm ấm thuộc
chủng tử trong Thức thứ tám đều bị thiêu hủy hết nên A lại gia hiển bày
Tâm Tĩnh Bồ Đề vô cấu nhiễm giống như đẳng hư không . Như vậy, dùng Cụ
Duyên Quả gia trì chuyển Thức thành Trí thì dây nghiệp bị thiêu
cháy hết mà ngưng nghỉ sự luân chuyển của sinh tử bản hữu .
Hai tay thứ sáu
: tay trái cầm Bánh xe tượng trưng cho
sự luân chuyển trong ba cõi sáu đường của các chúng sinh . Tay phải cầm
cây búa là lợi khí đập nát . Nay dùng búa lớn đập nát bánh xe luân
chuyển khiến nó trở thành Đức Luân Viên Cụ Túc của Như Lai .
Hai tay thứ bảy
: Tay trái cầm Thương Khư (‘Sakha ) là
vỏ ốc trong biển tượng trưng cho chúng sinh đang trầm luân trong biển
khổ sinh tử . Nay tay phải cầm Đại Bi Câu ( Móc câu Đại Bi )
tiếp dẫn khiến cho đến được bờ bên kia là Niết Bàn an lạc .
Hai tay thứ tám
: tay trái cầm Hiền Bình tượng trưng
cho sự hòa hợp của Sắc ( Rùpa ) Tâm ( Citta ) là nẻo sinh tử, nước
trong bình tượng trưng cho sự nắm giữ tội của ba nghiệp mà lưu chuyển
không cùng . Nay tay phải dùng Bạt Chiết La Tam Cổ Xử ( Chày Tam Cổ
Kim Cương ) phá nát ba nghiệp ấy mà chặn đứng dòng sinh tử .
Hai tay thứ chín
: Tay trái cầm Bát Nhã Phạm Khiếp là Trí Thức sở nạp trong Tâm, do
chẳng tự biết nên phải bị trầm luân trong biển khổ . Nay tay phải dùng
Bảo Man ( Vòng hoa báu ) gia trì khiến khai phát Bản Trí ấy . Bảo
Man là Tâm Tính Nghiêm vậy
Do các nghĩa này mà Chuẩn Đề ( Cudhe )
còn được dịch ý là MINH hoặc Diệu Giác . Đây là thành quả của
Tuệ Ba La Mật (Prajnõà pàramità)và là điều kiện căn bản để phát sinh
Chư Phật vậy .
_ Trong ao nước có 2 vị Long Vương Nan Đà, Ô Ba
Nan Đà cùng nâng đỡ tòa sen:
Tòa sen tượng trưng cho núi Tu Di ( Sumeru ) 2 anh em Long Vương Nanda
và Upananda là 2 Long Vương quấn quanh chân núi ấy.
Khi Đức Thích Ca đản sinh thời Long Vương dùng nước nóng tắm gội nên 2
vị Rồng này biểu thị cho Đẳng Giác Vị hay Vô Cấu Vị . Dùng nước Vô Cấu
tắm gội khiến thành Diệu Giác, mãn Quả Diệu Giác này thì Thích Ca và
Chuẩn Đề đồng Thể. Sau khi mãn Quả dùng Đẳng Giác Vô Cấu nên hai vị Rồng
làm Tòa biểu thị cho nghĩa này.
Hai vị Rồng nâng đỡ cọng sen:
Bồ Tát Đạo theo thứ tự tu hành Địa Ba La Mật từ Địa thứ nhất cho đến
Địa thứ mười một. Nên biết Địa sau dùng Địa trước làm thềm bậc nên nói
Như Lai dùng Thân Bồ Tát làm Tòa Sư Tử. Nay 2 rồng nâng đỡ cọng
sen được biểu thị cho nghĩa này
Hoa sen sinh từ nước:
Nước biểu thị cho nước Định ( Định Thủy ) mang ý nghĩa Dưỡng Nuôi
Thủ Hộ . Do đó hoa sen sinh từ nước được hiểu là Dùng nước
Định nuôi dưỡng tự tính thanh tịnh bất nhị .
_Bên trên vẽ 2 vị Tĩnh Cư Thiên:
Chúng Tĩnh Cư gồm có 5 vị Thiên Tử là: Tự Tại Thiên Tử, Phổ Hoa Thiên
Tử, Quang Man Thiên Tử, Ý Sinh Thiên Tử, Danh Xưng Viễn Văn Thiên Tử.
Các vị Thiên này đều biểu thị cho nghĩa Trong Sạch (‘Suddha ) đều
là Pháp căn bản để sinh ra Thánh Giả. Nay đề cử 2 vị Thiên này đều là
Thánh Giả thân cận Đức Phật, lắng nghe nói Pháp để hóa độ phương khác.
Vì Chuẩn Đề Phật Mẫu hay vào Nhân Đạo nói Pháp lợi sinh, xoay chuyển
Pháp Luân tồi phá tội ác của chúng sinh. Nên trong tranh tượng vẽ 2 vị
Thiên này.
_ Bên trái vẽ
người Trì Minh , tay cầm lò hương chiêm ngưỡng Thánh Giả. Chuẩn Đề Phật
Mẫu thương xót người Trì Minh, hướng mắt nhìn xuống:
Người Trì Minh cầm lò
hương chiêm ngưỡng Thánh Giả: Biểu thị cho sự đem nhiệt tâm chân thành
quán sát rõ ràng Pháp Yếu của Bản Tôn nhằm chuyên chú thực hành
Chuẩn Đề Phật Mẫu thương xót người Trì Minh , hướng mắt
nhìn xuống:
Biểu thị cho lực gia trì của Bản Tôn
luôn luôn hiện hữu. Nếu Hành Giả biết cách thọ nhận sẽ thành tựu Tất Địa
mong cầu.
Ngoài ra trong Kinh còn ghi rằng bên dưới trang tượng nên viết Bài Kệ
Pháp Thân Duyên Khởi nhằm giúp cho Hành Nhân chuyên chú quán niệm
sẽ mau chóng thực chứng được Pháp Duyên Khởi mà chứng Đạo Bồ Đề.
Pháp Thân Duyên Khởi Kệ
là:
“
Chư Pháp tùng Duyên Khởi
Như Lai thuyết thị Nhân
Bỉ Pháp Nhân Duyên tận
Thị Đại Sa Môn thuyết”
Dịch là:
“
Các Pháp theo Duyên khởi
Như Lai nói là Nhân
Pháp ấy Nhân Duyên hết
Là Đại Sa Môn nói”
Các Bậc Đạo Sư Tây Tạng thì thay bài Kệ trên bằng Thần Chú Duyên Khởi
là:
OMÏ_YE DHARMA HETU PRABHÀVA HETUN
TESÏÀMÏ TATHÀGATO HYA VADATA
TESÏÀMÏ CHAYO NIRODHA.
EVAMÏ VÀDI MAHÀ ‘SRAMANÏAHÏ YE _ SVÀHÀ
Để giúp cho Đồ Chúng dễ ghi nhớ Tôn Tượng 18 tay của Chuẩn Đề Bồ Tát,
các vị Đạo Sư Trung Hoa đã biên soạn bài tán Chuẩn Đề Phật Mẫu là:
Khuôn mặt Bồ Tát như trăng đầy
Sắc tướng trắng vàng rất đoan nghiêm
Nay con đỉnh lễ , thệ quy y
Nguyện thấy Tôn nhan , thường cúng
dường
NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
Trên mặt Bồ Tát có ba mắt
Như bốn biển lớn thật lặng trong
Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
Nguyện được năm loại mắt thanh tịnh
NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
Tai Bồ Tát đeo báu trang sức
Mọi thứ thù thắng rất trang nghiêm
Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
Nguyện được Nhĩ Thông , nghe Diệu Pháp
NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
Lồng ngực Bồ Tát hiện chữ Vạn
Như trăng tròn đẹp tỏa quang minh
Nay con đỉnh lễ , thệ quy y
Nguyện được Tâm Thông, nghe liễu ngộ
NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
Bồ Tát đội mão hoa trên đỉnh
Trong mão hóa hiện năm Như Lai
Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
Nguyện được Từ Tôn ban quán đỉnh
NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
Bồ Tát khoác áo màu trắng tinh
Sáu Thù đeo thể thật trang nghiêm
Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
Nguyện được quần áo khéo giải thoát
NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
Thân Bồ Tát đeo Châu Anh Lạc
Tay, ngón đeo vòng báu trang nghiêm
Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
Nguyện đủ băm hai ( 32 ) tướng Như Lai
NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
Bồ Tát ngồi thẳng trên hoa sen
Cao lớn chẳng động như núi vàng
Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
Nguyện sau sẽ ngồi tòa Bồ Đề
NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
Mọi chi phần trên thân Bồ Tát
Thường phóng vô lượng ánh sáng lớn
Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
Nguyện được Từ Quang đến hộ niệm
NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
Tay Bồ Tát kết Ấn Thuyết Pháp
Biểu thị khéo nói tất cả Pháp
Nay con đỉnh lễ , thệ quy y
Nguyện được các Pháp đều thông đạt
NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
Bồ Tát cầm cây Phướng màu nhiệm
Biểu thị Tối Thắng trong Thế Gian
Nay con đỉnh lễ , thệ quy y
Nguyện con hay dựng Phướng Đại Pháp
NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
Bồ Tát kết Ấn Thí Vô Úy
Dìu dắt chúng sinh bị hiểm nạn
Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
Nguyện con mau chóng lìa sợ hãi
NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
Bồ Tát cầm hoa sen màu nhiệm
Biểu thị sáu căn thường thanh tịnh
Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
Nguyện con lìa cấu uế ( Dơ bẩn ) như
sen
NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
Tay Bồ Tát cầm kiếm Trí Tuệ
Hay chặt mọi trói buộc phiền não
Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
Nguyện con chặt đứt Tham, Sân, Si
NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
Tay bồ Tát cầm bình Táo Quán ( rưới vảy
)
Tuôn nước Cam Lộ thấm chúng sinh
Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
Nguyện con thường được Phật quán đỉnh
NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
Bồ Tát cầm tràng hoa màu nhiệm
Mọi thứ trang điểm thật thù thắng
Nay con đỉnh lễ , thệ quy y
Nguyện con được buộc dây Diệu Pháp
NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
Bồ Tát cầm sợi dây Kim Cương
Khéo hay dẫn nhập vào tất cả
Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
Nguyện con được vào Pháp tương ứng
NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
Tay Bồ Tát cầm quả Thiên Diệu
Biểu thị viên thành quả Bồ Đề
Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
Nguyện con rộng tu các quả lành
NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
Bồ Tát cầm bánh xe tám căm
Uy quang chiếu diệu khắp Tam Giới ( 3
cõi )
Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
Nguyện con thường chuyển Đại Pháp Luân
NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
Tay Bồ Tát cầm cây búa lớn
Hay phá Pháp cứng rắn chẳng lành
Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
Nguyện con đập nát núi Ta , Người (
Nhân Ngã )
NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
Tay Bồ Tát cầm Loa Đại Pháp
Âm thanh chấn động ba ngàn cõi
Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
Nguyện con hay nói tất cả Pháp
NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
Bồ Tát cầm móc câu Kim Cương
Khéo hay câu triệu khắp tất cả
Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
Nguyện con thành tựu Pháp Câu Triệu
NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
Bồ Tát cầm cái Bình Như Ý
Tuôn ra Tạng báu với Kinh Điển
Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
Nguyện con thọ dụng thường như ý
NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
Bồ Tát cầm cây chày Kim Cương
Tám Bộ Trời Rồng đều quy ngưỡng
Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
Nguyện con điều phục kẻ khó phục
NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
Bồ Tát cầm quyển Kinh Bát Nhã
Chứa đựng nghĩa vi diệu thâm sâu
Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
Nguyện con không Thầy , tự nhiên ngộ
NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
Bồ Tát cầm viên ngọc Ma Ni
Hào quang tròn trắng không tỳ vết
Nay con đỉnh lễ , thệ quy y
Nguyện Tâm Địa con luôn lanh lợi
NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
Phật Mẫu Chuẩn Đề Đại Bồ Tát
Hiện mười tám tay ngồi trên Đàn
Tám Đại Bồ Tát hộ tám phương
Đệ Tử một lòng quy mệnh lễ
NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
Trong Kim Cương Giới Man Đa La thì Chuẩn Đề Bồ Tát được nhận biết dưới
danh hiệu Kim Cương Hộ Bồ Tát ( Vajra Raksïa Bodhisatva ) là một trong
bốn vị Bồ Tát thân cận của Đức Phật Bất Không Thành Tựu ( Amogha Siddhi
) [ tức là Phật Thích Ca Mâu Ni ] ở phương Bắc . Tôn này được sinh ra từ
môn Giáp Trụ Đại Từ của tất cả Như Lai ; vì thế Chuẩn Đề được dịch ý là
Hộ Trì Phật Pháp và vị Bồ Tát này thường đi lại Thế Gian để đập nát các
Hoặc Nghiệp của tất cả chúng sinh ; khiến cho kẻ đoản mệnh được
thọ mệnh lâu dài, tăng tiến Phước Tuệ, đời đời xa lìa các nẻo ác, mau
chóng phát Tâm Bồ Đề và viên mãn mọi ước nguyện . Ý nghĩa này thường
được đại chúng nhận biết nhiều qua các công năng của thần Chú Chuẩn Đề
ghi trong các Kinh Quỹ
-
Kinh Thất Câu Chi Phật Mẫu Tâm Đại Chuẩn Đề Đà La Ni có ghi:
Nếu có tỳ kheo, tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di, thọ trì đọc tụng Thần
Chú này, mãn 80 vạn biến thì những tội ngũ vô gián đã tạo từ vô lượng
kiếp đến nay hết thảy đều được tiêu diệt . Sinh ra chỗ nào cũng được gặp
Chư Phật và Bồ Tát, đời sống tư sinh tùy ý đầy đủ, đời đời thường được
xuất gia, trì đủ luật nghi tịnh giới Bồ Tát, thường sinh Nhân Thiên,
không đọa ác thú, thường được Chư Thiên ủng hộ .
Nếu có những người tại gia nam nữ thường trì tụng thì nhà kẻ ấy không có
khổ não tai họa bệnh khổ, ra làm việc gì đều được hạnh thông, nói ra lời
gì người nghe đều tín thọ
-
Trong Thất Câu Chi Phật Mẫu Tâm Đại Chuẩn Đề Đà La Ni Pháp có
ghi
Ấn Chú này có công năng diệt tất cả tội nặng như : tội ngũ nghịch và tội
thập ác, thành tựu tất cả Bạch Pháp . Trì giới đầy đủ thanh khiết mau
chứng Bồ Đề . Nếu người tại gia không thể đoạn đứt vợ con rượu thịt mà
chỉ y Pháp Ta ( Pháp Phật ) trì tụng đều được thành tựu .
... Đức Phật dạy : Đà La Ni này có thế lực lớn, chí tâm tụng trì quyết
phải tự chứng Có công năng khiến cây khô phát sinh hoa trái, huống gì
những quả báo ở thế gian . Nếu thường trì tụng thì nước, lửa, đao binh,
oan gia, độc dược đều không thể làm hại . Nếu người bị Quỷ Thần làm bệnh
chết; kết Ấn tụng Chú này 7 biến, lấy Ấn ấn nơi ngực đều khiến sống trở
lại . Gia đình nhà cửa ở không yên, bị Quỷ Thần gây họa ; trì Chú chú
vào 4 hòn đất đem trấn ở bốn phía thì liền đi .
Nếu người trong lục thân không hòa, không nghĩ đến tình thương nhau, nên
y Pháp tụng Chú hướng về lục thân thì được hòa hợp, nghe tên thấy thân
đều được hoan hỷ ; phàm cầu việc gì cũng được vừa lòng toại tâm . Huống
chi người trai giới đầy đủ, nhất tâm thanh tịnh y Pháp tụng trì, thì
nhất định chuyển thân này tức chứng Bồ Đề, có được đại công lực
Ngài Long Thọ Bồ Tát ( Nàgàrjuna ) có bài kệ khen ngợi công đức của
Chuẩn Đề Bồ Tát rằng :
Chuẩn Đề công đức tụ
Tịch tịch tâm thường tụng
Nhất thiết chư đại nạn
Vô năng xâm thị nhân
Thiên thượng cập nhân gian
Thọ phước như Phật đẳng
Ngộ thử Như Ý châu
Định hoạch vô đẳng đẳng
.
Dịch :
Nhóm công đức Chuẩn Đề
Tâm vắng lặng thường tụ
Tất cả các nạn lớn
Không thể phạm đến người
Trên Trời với cõi Thế
Thọ phước ngang bằng Phật
Gặp ngọc Như Ý này
Được sự không gì hơn .
Lại nữa, phương Bắc là Thắng Phương nên tương ứng với vị trí cứu cánh là
địa vị cao cả của Niết Bàn, vì thế Đức Bất Không Thành Tựu Như Lai là
dạng thần cách hóa của Trí Niết Bàn của Như Lai tức là sự chứng
nhập vào cảnh giới thậm thâm của Đại Niết Bàn . Đồng thời Đức Bất Không
Thành Tựu Như Lai còn biểu thị cho Thành Sở Tác Trí là Trí dùng ba
nghiệp Thân , Khẩu , Ý của Như Lai làm lợi lạc cho chúng hữu tình, vì
chúng sinh hành thiện mà thành bản nguyện lực . Đây là dùng phương tiện
lợi tha để thành tựu diệu nghiệp vị tha, thường ứng với căn cơ của chúng
sinh mà đoạn trừ mê vọng cho họ . Do Biến Hóa Luân tác dụng giới ở
phương Bắc, dùng Bất Xả Chúng Sinh Đại Tinh Tiến Ba La Mật mà thành tựu
bốn vị thân cận là Kim Cương Nghiệp Bồ Tát ( Vajra Karma) ; Kim Cương
Hộ Bồ Tát (Vajra Raksïa) Kim Cương Nha Bồ tát ( Vajra Yaksïa ) Kim
Cương Quyền Bồ Tát (Vajra Samïdhi ) . Trong đó : Kim Cương Nghiệp Bồ
Tát được sinh ra từ môn Công Nghệ khéo léo của tất cả Như Lai . Kim
Cương Hộ Bồ Tát được sinh ra từ môn Giáp Trụ Đại Từ của tất cả Như Lai .
Kim Cương Nha Bồ Tát được sinh ra từ môn Điều phục không sợ hãi của tất
cả như Lai . Kim Cương Quyền Bồ Tát được sinh ra từ môn Trụ Trì Thành
Tựu của tất cả Như Lai .
Như thế, khi trì niệm Chuẩn Đề Cửu Thánh Tự Chân Ngôn,hành giả sẽ tương
tứng được với môn Đại Từ Giáp Trụ của tất cả Như Lai để thâm nhập vào
chân lý . Đây là giai đoạn nương theo Trí Niết Bàn của Như Lai, tu tập
Tuệ Ba La Mật (Prajnõà pàramità) để đi thẳng vào tự tính an lạc của Đại
Niết Bàn, tức là chứng nhập được tâm Bồ Đề
V . NHẤT TỰ KIM LUÂN PHẬT ĐỈNH CHÂN NGÔN
狤
BHRÙMÏ
BHRÙMÏ (狤)
được kết hợp bởi bốn âm tự là BHA , RA , Ù , MA . Trong đó
-
BHA (矛
) là tất cả Pháp Hữu chẳng thể đắc . Do tất cả Hữu là 3 Hữu cho
đến 25 Hữu nên BHA biểu thị cho nghĩa Được Tự Tại trong các Hữu
, thường hay phá nát các Pháp Dời Đổi ( thiên biến ) hiển lộ Pháp Tự
Tại .Vì thế BHA còn biểu thị cho Phương Tiện Ba La Mật ( Upàya Pàramita
) là phương cách trong đó công hạnh tu tập 6 Độ được chuyển sang để giác
ngộ kẻ khác .
-
RA (先)
là tất cả Pháp Lìa bụi nhiễm . Do hay phá nát sự nhiễm ô của 6
Trần hiển lộ sự thanh tịnh vô cấu nên RA được biểu thị cho nguyện Ba la
mật ( Pranidhàna pàramita ) là ý chí hành 6 Độ để giác ngộ kẻ khác .
-
Ù (珅)
là tất cả Pháp Tổn giảm chẳng thể đắc . Do tất cả Pháp Hữu đều
không lìa được thể Tổn Giảm nên Ù hàm chứa nghĩa Diệu hữu chân thiện
và biểu thị cho Lực Ba La Mật ( Bala pàramita ) là khả năng có thể
nuôi lớn 6 Độ để giác ngộ kẻ khác .
- MA (亙)
được ký hiệu thành âm tiêu ( ) đặt trên đầu chữ là thanh Tam Muội,
biểu tượng của Trí Đại Không thường hay phá nát các Pháp Ngô Ngã
hiển lộ Pháp Đại Không cực thiện . Do đó, MA được biểu thị cho
Trí Ba La Mật ( Jnõàna pàramita ) tức hiểu rõ được đức tính của 6 Độ là
phương cụ để giác ngộ kẻ khác .
Do 4 Ba la mật : Phương tiện, Nguyện, Lực, Trí xuất phát từ Bát Nhã Ba
La Mật ( Prajnõa pàramita ) nên BHRÙMÏ biểu thị cho một giai đoại không
chứng nhập quả vị Niết Bàn mà lao vào thế gian sinh tử, thi hành vạn
hạnh Đại Bi, hóa độ chúng hữu tình, hoàn thiện mọi thiện căn, chứng nhập
từng phần Pháp Thân để viên mãn quả vị Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác
của các vị Bồ Tát Bất Thoái Chuyển .
Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa , phẩm CHÂN THẬT
có ghi :
“Bậc Bồ Tát tu tập Bát Nhã Ba La Mật Đa đều phải học và thực hành các
Pháp KHÔNG, VÔ TƯỚNG, VÔ TÁC GIẢI THOÁT MÔN nhưng không chứng nhận quả
vị mà chỉ nhận quả vị khi thiện căn đầy đủ
“
Theo Mật Giáo thì Nhất Tự Đỉnh Luân Vương là Mật Hiệu của Đại Nhật Như
Lai, là Tổng xưng mọi Đức của Pháp Thân . Trong một chữ này
nhiếp vô tận Mật Pháp . Trong một Ấn chứa hằng sa Ấn . Lực phá
hủy các nghiệp ác mạnh hơn Chư Phật và mau chóng thành tựu Công Đức vượt
hơn hẳn các Pháp khác . Chân Ngôn này được Đức Đại Nhật Như Lai tuyên
thuyết khi Ngài nhập vào Tối Thắng Tam Ma Địa . Và BHRÙMÏ biểu thị cho
nghĩa Tam Thân Nhất Thể tức là Tam Muội vốn ngay ở một .
BHRÙMÏ do bốn chữ BHA, RA, Ù, MA hợp thành, với :
.
BHA (矛)
biểu thị cho Ứng Hóa thân là sinh thân Thích Ca Mâu Ni Phật ở phương
Bắc, hiển thị mọi giáo nghĩa giúp chúng sinh vượt ra khỏi nhà lửa của
Tam Giới . Vì thế Đức Thích Ca Mâu Ni Phật còn được xưng tán là PHÁ HỮU
PHÁP VƯƠNG
.
RA (先)
biểu thị cho Báo Thân là Sa La Thọ Vương Phật ở phương Nam, hiển thị
cho sự mở bày vạn Đức, nuôi lớn Tâm Bồ Đề, viên mãn vạn hạnh Đại Bi để
thành Chính Giác .
Hai chữ BHA và RA đều hàm chứa chữ A biểu thị cho Pháp Thân Đại Nhật Như
Lai, biểu thị nghĩa Vạn Pháp thảy đều Bất Sinh thường trụ . Điều này có
nghĩa là Hóa Thân Thích Ca ở phương Bắc (矛)
sau khi hết hạn hóa duyên sẽ nhập vào chữ RA (先 ) ở phương Nam là Trí Đại Thành Pháp
Thân Nội Chứng Pháp Giới, phân chia ngọc Xá Lợi còn mọi tướng tốt đẹp
của thân thể đều biến thành một chữ BHRÙMÏ để nhiếp trì Chính Pháp Tức
là : Biến Hóa Thân vô thường quy về Pháp Thân Thường Trụ Kim Cương
Bất Hoại Xá Lợi
Như vậy, hai chữ BHA , RA là nội chứng ngoại dụng, Sinh Thân Pháp Thân,
chủng tử của Lý Trí, Trí Đức Phước Đức, công đức của hai bộ . Từ hai chữ
này sinh ra hóa dụng của Đại Trí Đại Bi .
.
Ù (珅
) là nghĩa Tối Thắng của Kim Cương , biểu thị cho Chân Thiện Diệu Hữu
.
MA (亙)
là Kim Luân Tối Thắng vạn đức trang nghiêm cụ túc viên mãn, hiển thị cho
Trí Đại Không .
Dạng Thần cách hóa của BHRÙMÏ là Đại Kim Luân Minh Vương với Tôn hình
màu vàng rực hoặc màu trắng, ngồi trên hoa sen trắng tám cánh, tay kết
Trí Quyền Ấn . Hình tượng là Trí Phật trong Kim Cương Giới nhập vào
tướng Nhật Luân Tam Muội của Thai Tạng Giới . Do đó, Tôn này là chỗ quy
thú cho mọi công đức của Chư Phật Bồ Tát và được xem là bậc Tối Thắng
trong các Phật Đỉnh, cho nên Tôn này có tên là Kim Luân Phật Đỉnh hay
Nhất tự Kim Luân Phật Đỉnh Vương .
-
Trong Nhất Tự Đỉnh Luân Vương Kinh Du Già Nhất Thiết Thời Xứ Niệm
Tụng Thành Phật Nghi Quỹ có ghi :
Đại Kim Luân Minh Vương có uy quang vượt khắp các mặt trời, bảy báu vây
đầy chung quanh, là Luân Vương của tất cả Phật Đỉnh Luân Vương . Khi
Ngài mới hiện thân đặc biệt kỳ diệu thì các Thánh Chúng đều mất sự hiển
hiện thắng tuyệt, chẳng dám chung cùng, chỉ có Phật mới cùng chung nhất
thể
-
Trong Nhất Tự Đỉnh Luân Vương Kinh có ghi là :
Đức Phật Thích Ca ngồi ở Kim Cương Đạo Trường dưới gốc cây Bồ Đề trong
nước Ma Kiệt Đà, nhận lời thỉnh cầu của Kim Cương Mật Tích chủ Bồ Tát
nhập vào Tam Ma Địa, hiện thành tướng Đại Chuyển Luân Vương nói NHẤT TỰ
ĐỈNH LUÂN VƯƠNG CHÚ thì Đại Thiên Thế Giới chấn động . . .
Nếu dùng Tôn này làm Bản Tôn của Pháp tu tất cả Tất Địa với Pháp Trừ
Tai thì sẽ trừ diệt được vô lượng các tội chướng rất nặng của đời
hiện tại, cũng có thể vượt qua các nẻo ác, trừ bệnh tật và chứng Đạo Bồ
Đề . . .
Lại nữa, BHRÙMÏ còn được tôn xưng là MẠT PHÁP NHẤT TỰ ĐÀ LA NI nghĩa là
trong thời Mạt Pháp, chú này có thế lực rất lớn như : làm lợi ích lớn
cho thế gian, bảo hộ tất cả Pháp tạng của Như Lai, hàng phục tất cả
chúng tám Bộ, hay ban Pháp vô úy cho chúng sinh, thường giúp chúng sinh
được mọi phỉ lạc, giúp cho hành giả mau chóng thành tựu tất cả Chân Ngôn
khác và thường hay giúp cho chúng sinh viên mãn tất cả ước nguyện .
Nhất Tự Chú này là Đỉnh của tất cả chư Phật là Tâm của Văn Thù Bồ Tát .
Nếu tụng Chú này thì trong khoảng năm Do Tuần, các Tinh Tú ác không dám
đến gần, các Quỷ Thần ác đều tự lánh xa, các loài Thiên Ma không dám đến
não hại, tất cả tội chướng của người trì tụng đều được thanh tịnh và
người ấy có thể vào trong các Bộ không bị chướng ngại đồng thời có công
năng bẻ gãy tất cả ác Chú trong thế gian, viên mãn mọi Pháp tu trì .
-
Trong Mạt Pháp Nhất Tự Đà La Ni Kinh có ghi bài Tụng rằng :
Hết thảy các Phật Tử
Các ông nên lắng nghe
Nay Ta nói Chú này
Đầy đủ các công đức
Sau này khi đời ác
Pháp Ta sắp muốn diệt
Hay ở trong thời ấy
Hộ trì Mạt Pháp Ta
Hay trừ ác Thế Gian
Các Quỷ Thần độc hại
Thiên Ma với người ác
Hết thảy các Chú Pháp
Nếu nghe tên Chú này
Thảy đều tự nép phục
Sau khi Ta diệt độ
Phân khắp Xá Lợi rồi
Sẽ ẩn các tướng tốt
Biến thân làm Chú này (狤_
BHRÙMÏ
)
Phật có hai thứ thân
Chân Thân và Hóa Thân
Nếu hay cúng dường ấy
Phước Đức không có khác
Chú này cũng như thế
Tất cả các Trời Người
Thường sinh lòng hy hữu
Thọ trì và cúng dường
Sẽ được các công đức
Như thân Ta không khác
Công đức Chú Vương này
Nay Ta chỉ lược nói
Do các ý nghĩa này, BHRÙMÏ còn được xem là chủng tử Pháp Thân của Đức
Phật Thích Ca Mâu Ni . Như vậy, khi trì niệm BHRÙMÏ hành giả sẽ được Chư
Như Lai, chư vị Bồ Tát, các vị Hiền Thánh , các bộ Thánh Thiên, Quỷ Thần
. . . trong Pháp Giới hộ trì để giúp cho hành giả tự khai mở được Chính
Pháp của chính mình, từ đó an nhiên thi hành vạn hạnh lợi tha cho đến
khi thấu ngộ được tướng Trừ Ám Biến Minh của Nhật Luân Tam Muội
thì tự mình thành tựu được Trí Tuệ của Như lai vậy . Đây là giai đoạn
nương theo lực gia trì của Pháp Thân Như Lai để chứng ngộ Phật Trí
vốn có nơi mình .
NGŨ BỘ CHÚ ĐÀN
Bình
thường để giúp cho Môn Đệ không lãng quên ý hướng tu tập của mình, các
vị Đạo Sư Mật Giáo thường minh họa hình tượng các Tôn trong một Đàn Pháp
gọi là Manïdïala với ý nghĩa cứu cánh là nơi phát sinh ra chư Phật.
Riêng trong Pháp tu Ngũ Bộ Chú thì các vị Thầy đã truyền dạy nghĩa thú
tu hành qua Đàn Pháp sau
1_ Tịnh Pháp Giới Chân Ngôn ( ở phương Đông):
RAMÏ
RAMÏ : Biểu thị cho Đại Không Trí Hỏa Tam Muội là Trí Pháp Thân
của Đại Nhật Như Lai có công dụng hay thiêu đốt tất cả bụi dơ vô thủy vô
minh của chúng sinh và giúp cho mầm giống của Tâm Bồ Đề được tăng
trưởng.
2_ Văn Thù Nhất Tự Hộ Thân Chân Ngôn ( ở phương Nam)
‘SRHYIMÏ
‘SRHYIMÏ: Tự Ngã an ổn trong các nhân tốt lành nhằm nuôi dưỡng hạt
giống Tâm Bồ Đề đang nảy nở trong Tâm của mình
‘SRHYIMÏ biểu thị cho sự nương theo Phước Trí Bình Đẳng của Như Lai để
nuôi dưỡng Tâm Bồ Đề
3_ Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn (ở phương Tây)
OMÏ MANÏI PADME HÙMÏ
OMÏ :Quy mệnh
MANÏI : Viên ngọc Như Ý
PADME : Bên trong hoa sen
HÙMÏ : Tự Ngã thành tựu
OMÏ MANÏI PADME HÙMÏ biểu thị cho sự nương theo Trí Phổ Môn Phương
Tiện của Như Lai để chứng ngộ Tâm Bồ Đề
4_ Chuẩn Đề Cửu Thánh Tự Chân Ngôn ( ở phương Bắc)
OMÏ CALE CULE CUDHE
SVÀHÀ
OMÏ : Quy mệnh
CALE : Giác động, tức là chuyển động sự Giác Ngộ
CULE : Trực khởi , tức là đi thẳng đến
CUDHE
: Tự Tính thanh tịnh của Tâm Bồ Đề
SVÀHÀ : Thành tựu vị an vui của Đại Niết Bàn
OMÏ CALE CULE CUDHE
SVÀHÀ biểu thị cho sự nương theo Trí Niết Bàn của Như Lai để chứng nhập
Tâm Bồ Đề
5_ Nhất Tự Kim Luân Phật Đỉnh Chân Ngôn (ở phương trung ương)
BHRÙMÏ
BHRÙMÏ biểu thị cho sự nương theo lực gia trì của Pháp Thân Như Lai để
chứng ngộ Phật Trí vốn có nơi mình
6_ Chủng Tử của Kim Cương Bộ (ở phương Đông Nam)
HÙMÏ
HÙMÏ biểu thị cho Đại Viên Kính Trí ,là Trí thanh lọc làm tiêu tan và
thu nhiếp tất cả yếu tố nhân vị của cá nhân
7_ Chủng Tử của Bảo Bộ (ở phương Tây Nam)
TRÀHÏ
TRÀHÏ biểu thị cho Bình Đẳng Tính Trí ,là sự hoàn mãn của Tâm Lực
chuyển mọi tình cảm ích kỷ riêng tư thành tình thương phổ quát
8_ Chủng Tử của Liên Hoa Bộ (ở phương Tây Bắc)
HRÌHÏ
HRÌHÏ biểu thị cho Diệu Quan Sát Trí , là Trí khéo biết tất cả tướng
chung và tướng riêng của các Pháp mà không hề bị ngăn chuyện, lại y theo
từng loại căn cơ mà thuyết Pháp giáo hóa một cách tự tại
9_ Chủng Tử của Yết Ma Bộ (ở phương Đông Bắc)
AHÏ
AHÏ biểu thị cho Thành Sở Tác Trí , là Trí giải thoát các Nghiệp, thành
tựu tất cả công đức
NGHI THỨC TỤNG TRÌ ĐƠN GIẢN
Nghi Thức Tụng Trì Ngũ Bộ Chú có rất nhiều tùy theo từng Hệ Phái. Tuy
nhiên để có thể thực hiện một cách đơn giản và dễ nhớ nhất , chúng ta có
thể thực hành theo phương cách sau.
Vào các giờ Tý, Ngọ, Mão, Dậu (4 giờ sinh hóa của trời đất) Hành Giả tắm
gội sạch sẽ, mặc quần áo mới sạch, ở trước Tôn Tượng dâng hương hoa,
thực phẩm, đèn nến…. (tùy theo khả năng của mình) rồi trì tụng như sau
Nam mô Phật
Nam mô Pháp
Nam mô Tăng
Quy mệnh bảy vị Phật đời quá khứ
Quy mệnh chư Phật đời hiện tại
Quy mệnh chư Phật đời vị lai
Quy mệnh các Đệ Tử của chư Phật
Hãy khiến cho Chú Sở Trì của con liền theo như nguyện
OM , RAM
OM , XỜ-RỜ-HI-DIM
OM , MA NI , PA ĐỜ-MÊ , HÙM
OM, CHA LÊ, CHU LÊ, CHUNG ĐÊ, SỜ-VA HA
BỜ-HỜ RUM
(Tụng liền một hơi 5 câu Chú , tụng 108 lần cho đến 1080 lần)
Nam mô Phật
Nam mô Pháp
Nam mô Tăng
Quy mệnh bảy vị Phật đời quá khứ
Quy mệnh chư Phật đời hiện tại
Quy mệnh chư Phật đời vị lai
Quy mệnh các Đệ Tử của chư Phật
Hãy khiến cho Chú Sở Trì của con liền theo như nguyện
(
Sau đó Hồi Hướng, Phát Nguyện rồi lui ra)
KẾT LUẬN
Ngũ Bộ Chú chính là lược đồ ghi nhớ các giai đoạn tu tập mười Ba La Mật
của Bồ Tát Đạo nhằm giúp cho hành giả tự kiểm điểm những sai lầm và
thiếu sót của mình trong khi tu tập Chính Pháp giải thoát .
Theo Mật Giáo thì Ngũ Bộ Chú chính là môn Tịnh Bồ Đề Tâm tức là
cửa ngõ để đi vào Trí Tuệ của Chư Phật, trong đó :
a
. Do phát khởi đức tin trong sạch thâm sâu là Tâm thực tế vốn chẳng
sinh, tâm ấy an trụ thì sinh Đại Tuệ sáng chói, chiếu khắp vô lượng Pháp
Tính, thấy rõ đường lối hành đạo của Chư Phật .
b
. Bồ Tát trụ ở Đạo ấy thì tự nhiên xa lìa được những Nhân Duyên vọng
tưởng, diệt trừ được mọi nghiệp khổ phiền não khiến thân tâm được an
tịnh cát tường .
c
. Người tu hành do Tâm Bồ Đề thanh tịnh soi sáng các Pháp nên ít dùng
công sức mà chứng ngộ được bản tâm thanh tịnh vô cấu nhiễm, thấy thật
tướng của 84000 món báu và đắc được Trừ Cái Chướng Tam Muội .
d
. Khi hành giả đã được Tam Muội tịnh trừ năm chướng rồi thì tự tâm
thường thấy diệu tướng sâu lặng tự nhiên (Trạm nhiên ) của tất cả Chư
Phật mười phương như xem hình trong gương sáng cho đến trong mọi oai
nghi : đi lại, thức ngủ đều chẳng rời những nhân duyên HỘI PHẬT như thế
đồng thời hành giả thường được chư Thánh đem những phương tiện thắng
diệu để dạy cho tâm tỏ ngộ và thọ nhận được mùi vị an lạc tịch tĩnh của
Đại Niết Bàn .
e
. Khi ấy, Hành Giả : bên trong thì được đầy đủ các công đức, bên ngoài
lại được chư Phật hộ trì . Vì thế ở nơi sinh tử mà không hề bị đắm nhiễm
giống như hoa sen ra khỏi mặt nước chẳng vì xuất thân từ chỗ bùn dơ mà
bị nhiễm ô . Do an nhiên tự tại trong sinh tử, hành giả lại dùng bốn
Nhiếp Pháp để tế độ chúng sinh thoát khỏi biển khổ đồng thời hành giả
ngày càng thâm nhập vào Trí Tuệ của Phật và chứng đạt quả vị Vô Thượng
Chính đẳng Chính Giác .
Năm giai đoạn trên là đường nét tự thân chứng đạt được Pháp giải thoát
vô thượng của các bậc Thượng Căn đại đức vì thế Hệ thống thuần Mật
thường nhận định là “ Mau chóng thành Phật “ hoặc “ Tức thân
thành Phật “
-
Đối với bậc Trung Căn thì Ngũ Bộ Chú biểu thị cho Lực gia trì của năm Bộ
nhằm nhiếp trì chúng sinh đi vào nẻo lành để tự khai mở được Chính Pháp
của chính mình . Trong đó :
1 . OMÏ RAMÏ :
Biểu thị cho lực gia trì của Kim Cương Bộ ( Vajra Kulàya ) nhằm
phá tan phiền não chướng đang ngăn che ánh sáng thắng diệu của Trí Tuệ
bản nhiên trong tâm của mọi chúng sinh .
Để có thể tương ưng với lực gia trì này, hành giả cần phải phát huy
những hành động hướng thượng nghĩa là hướng tâm về cuộc sống cao
cả (Hiền thiện, ngay thẳng, mực thước, chân chính, vị tha)
để giảm bớt các chướng ngại và phiền não của thân tâm .
2 . OMÏ ‘SRHYIMÏ :
Biểu thị cho lực gia trì của Bảo Bộ ( Ratna Kulàya ) nhằm nuôi
lớn phước đức đang tiềm ẩn trong tâm của chúng sinh khiến cho họ tự nhận
biết rằng mình vốn có đầy đủ công đức như Chư Phật .
Để có thể tương ưng với lực gia trì này, hành giả cần phải tu tập hạnh
chân thật bình đẳng, tinh tiến dẹp trừ các Pháp bất thiện và nuôi dưỡng
Pháp thiện để vượt qua vòng kiềm hãm trói buộc của Ngã Chấp và lòng ích
kỷ .
3 . OMÏ MANÏI PADME HÙMÏ :
Biểu thị cho lực gia trì của Liên Hoa Bộ ( Padma Kulàya ) nhằm
làm tươi tốt muôn điều lành và khai mở cho chúng sinh tự thấu ngộ được
bản tâm thanh tịnh vô cấu nhiễm vốn có nơi mình .
Để có thể tương ứng với lực gia trì này, hành giả cần phải tu tập những
hành động trong sạch nghĩa là cố gắng gìn giữ thân tâm không để cho nó
bị nhiễm 6 phiền não căn bản (ảo tưởng kiêu mạn, ganh tị tranh
đấu, hoài nghi tự kiêu, trì độn mù quáng, tham dục thèm khát, giận dữ
oán hận ) chi phối sai xử .
4 . OMÏ CALE CULE CUDHE
SVÀHÀ :
Biểu thị cho lực gia trì của Nghiệp Dụng Bộ (Karma kulàya ) [ hay
Khố Tàng Bộ ( Garja Kulàya ) ] là đức Hóa Tha Nghiệp Dụng của
Chư Phật vì thương xót chúng sinh mà thi hành tất cả sự nghiệp nhằm
giúp chúng sinh đoạn trừ mọi mê vọng để tự chứng đạt được Bản Tâm tịch
tĩnh an nhiên của chính mình .
Để có thể tương ưng với lực gia trì này, hành giả cần phải sống hoạt
động dưới sự tự tri , tự giác, tự chủ, điều dụng, vị tha để giữ gìn thân
tâm yên ổn không bị dao động vì sức cám dỗ của ngoại cảnh hay những lo
nghĩ của Bản Tâm .
5 . BHRÙMÏ :
Biểu thị cho lực gia trì của Như Lai Bộ ( Tathàgata Kulàya ) nhằm giúp
chúng sinh tự thấu ngộ rằng mình vốn có Lý Trí đầy đủ, Giác Đạo viên mãn
chỉ vì Vô minh che lấp nên chưa hiển lộ . Nay được ánh quang minh thắng
thượng của Phật Tuệ soi sáng mà khởi Tâm Tàm Quý ( hổ trẽn) quyết
chí noi dấu Đức Đại Từ Phụ mà tu tập Chính Pháp giải thoát vô thượng .
Để có thể tương ưng với lực gia trì này, hành giả phải thường xuyên niệm
Phật để đánh thức Phật Tính vốn có nơi mình, đồng thời luôn luôn giữ gìn
Thệ Nguyện thành Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác nghĩa là nuôi ý nguyện
xa lìa cảnh giới tịch tĩnh của Niết Bàn, dấn thân vào Thế Giới uế trược
của chúng sinh để thi hành vạn hạnh tự lợi lợi tha, hoàn thiện năm phần
Pháp Thân Vô thượng .
Đối với hàng Hạ Căn thì Ngũ Bộ Chú biểu thị cho lực gia trì của Pháp
Giới nhằm giúp cho hành giả gieo trồng căn lành, tạo nhân duyên với các
Bậc Thánh giải thoát đồng thời làm tiêu giảm bớt một số tội chướng của
thân tâm . Tuy nhiên dưới lực gia trì này, hành giả dễ tương ưng với Chư
Thiên và Quỷ Thần Bộ ; vì thế dễ bị uy lực của các hàng này dẫn nhiếp .
Nếu hành giả thiếu sự khéo léo thì dễ bị lệch đường, đi vào nẻo ác và
phá hoại căn lành . Chính vì thế, hành giả cần phải cố gắng giữ gìn giới
hạnh cho trong sạch, luôn quy hướng về ân đức Tam Bảo, thường xuyên trì
niệm Hồng Danh BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT , luôn kiểm soát tâm ý của
mình, luôn tham khảo Kinh Điển Phật Giáo và đàm luận với các bạn lành để
minh xác hướng đi chân chính, tránh sự Ngã mạn tự ti, huân tập tâm bình
đẳng không chấp trước để có thể mau chóng thọ nhận được lực gia trì của
Chư Phật và các Bậc Thánh giải thoát . . . Điều quan trọng là hành giả
phải khởi tâm chân thật và cố gắng thực hành mọi Pháp với tâm chân thật
quy hướng về quả vị Toàn Giác ; thì hành giả sẽ mau chóng xa lìa Thầy
xấu, bạn ác, để gặp Thầy tốt, bạn lành và gặp được Pháp giải thoát chân
thật, đúng như lời Đức Phật dạy : TÁC Ý LÀ NGHIỆP